Câu chuyện thứ 2 - Trải nghiệm và phép màu

CÂU CHUYỆN CÁC ĐỆ TỬ KỂ VỀ NHỮNG PHÉP MẦU GURUJI ĐÃ THỰC HIỆN ĐỂ CHE CHỞ VÀ HƯỚNG DẪN HỌ. 

"A true disciple doesn't choose the Guru. The Guru chooses the disciple – from lifetimes of longing."
Ẩn danh
 "Một người đệ tử chân thật không chọn Guru. Chính Guru chọn đệ tử – vì lòng đệ tử đã khát khao trong suốt nhiều kiếp sống."

Appaji ở Phần Lan 

 CÂU CHUYỆN THỨ 2 

TRẢI NGHIỆM VÀ PHÉP MÀU
Stuart Mashburn, New Orleans, Louisiana

Câu chuyện của tôi bắt đầu khi tôi đang xem qua những mẫu quảng cáo ở cuối tạp chí “Yoga Journal”. Tôi lật sang trang kế và thấy một bức ảnh của Swamiji và lập tức cảm thấy bị thu hút bởi Ngài. Thấy rằng Ngài sẽ đi lưu diễn ở Mỹ, tôi hy vọng rằng Ngài sẽ ghé qua khu vực New Orleans. Quả thật là Ngài đã đến. Tôi biết rằng mình phải gặp được vị hiện thân này dù có bất kỳ trở ngại nào, vì mối liên kết mạnh mẽ mà tôi đã cảm nhận.

Cuối cùng thì ngày Swamiji đến New Orleans cũng đã đến và tôi đã đi dự satsang tại nhà của Suryae và Prabha Venkatesh. Không lâu sau khi tôi ngồi xuống, Sri Swamiji nhìn thẳng vào mắt tôi và đánh trúng tôi bằng một tia laser của tình yêu. Tôi biết mình phải làm gì.

Sáng hôm sau khi đi làm, tôi xin sếp nghỉ một tuần để có thể dành nhiều thời gian hơn với vị thánh nhân đặc biệt này (Điều này không phải dễ được chấp thuận trong thời gian ngắn như vậy, nhưng tôi phải thử). Nhờ ân huệ của Swamiji, tôi được phép nghỉ. Lúc này tôi biết rằng mối quan hệ lâu dài với Swamiji là điều đã được an bài. Sáng hôm sau nữa, tôi đến sớm để dự Sri Chakra Puja cùng với một quả cam để dâng lên Swamiji. Tôi biết rằng sẽ phải chờ lâu, nên tôi bắt đầu thực hiện Reiki cho quả cam, với ý định dâng năng lượng này lên Ngài nữa.

Sau buổi puja, Swamiji chấp nhận các lễ vật và bắt đầu thuyết giảng. Trong khi Ngài đang nói, tôi để ý rằng thỉnh thoảng Ngài chạm vào quả cam. Lúc đó tôi không biết rằng Ngài có thể làm vật chất hóa các vật thể và tôi cũng không có kỳ vọng gì. Tôi đã dâng quả cam và năng lượng Reiki chỉ vì tình yêu dành cho Swamiji. Để đáp lại Ngài theo cách mà Ngài đã ban tặng cho tôi.

Ngài bắt đầu làm vật chất hóa các vật thể cho một số người trong phòng. Tôi cảm thấy rất vui cho tất cả họ vì sự may mắn lớn lao của họ, và tôi vẫn không mong cầu gì, hoàn toàn tận hưởng niềm vui bất ngờ của mọi người.

Swamiji tiếp tục nói chuyện và tiếp tục cầm quả cam. Sau một lúc, Prasad đứng dậy và yêu cầu người đang cầm quả cam suốt buổi sáng đến gặp Swamiji. Tôi bước đến trước mặt Swamiji với hai tay chắp lại, quỳ xuống và cúi đầu. Khi tôi ngẩng lên, Swamiji bẻ đôi quả cam và lấy ra một chuỗi hạt mala từ bên trong. Điều lạ là Ngài dường như có ba tay ba bàn tay vì Ngài bẻ quả cam ra làm hai phần bằng nhau, cầm mỗi nửa bằng một tay, và giơ lên chuỗi hạt mala vẫn đang kéo ra từ trong quả cam bằng một tay khác.

Với hai tay chắp lại tôi cúi đầu và Ngài đeo chuỗi mala lên cổ tôi. Ngài đưa cho tôi nửa quả cam mà Ngài đã lấy chuỗi hạt ra và nói, “Ăn đi. Đây là thuốc tốt.” Rồi Ngài đưa nửa còn lại cho mẹ tôi. Tôi cảm ơn Ngài trong nước mắt rồi quay lại chỗ ngồi.

Khi xem xét quả cam từ nơi chuỗi mala được rút ra, ngay trước mắt tôi, tôi nhận thấy trái cây vẫn không hề bị hư hại sau khi chuỗi hạt được kéo ra khỏi đó. Tôi ăn phần vỏ, cùi và tất cả, chỉ chừa lại một mảnh nhỏ của vỏ cam mà tôi giữ trên bàn thờ của mình.

Đó là một chuỗi mala bằng đá garnet tuyệt đẹp với hạt Guru bằng tinh thể thạch anh. Tôi gọi là đá garnet vì ban đầu nó là như vậy. Tuy nhiên, đôi khi những hạt garnet đó chuyển sang màu tím thạch anh. Thật là một cách tuyệt vời để cho tôi biết rằng Ngài luôn ở bên tôi. Tôi biết rằng mình đã nhận được một phước lành lớn, nhưng mãi nhiều năm sau tôi mới nhận ra điều đó tuyệt vời đến mức nào.

Vào tháng 11 năm 1993, vài tháng sau khi gặp Swamiji, tôi gặp một tai nạn tại nơi làm việc. (Lúc đó tôi đang đeo chuỗi mala, nhưng không nghĩ gì về nó). Một chiếc xe buýt đâm vào cái giỏ nâng người mà tôi và người bạn Christian Peperone của tôi đang ở trong đó. Thật là kỳ diệu khi cả hai chúng tôi không chết. Chúng tôi bị bật ra khỏi giỏ và va đập khá mạnh. Kết quả là bị nhiều thương tích, nhưng vẫn sống. Phải mất vài năm tôi mới nhận ra ý nghĩa của việc nhận được chuỗi mala. Sau khi đọc tiểu sử của Swamiji, tôi nhận ra rằng Ngài đã biết trước tai nạn này sẽ đến và rằng nhờ ân sủng của Sadguru đáng kính, Dattaji, mạng sống tôi được cứu và Ngài đã trao cho tôi chuỗi mala đó để cứu mạng tôi.

Đã trải qua năm năm dài đằng đẵng với nhiều đau đớn liên quan đến tai nạn này và tôi muốn công khai cảm ơn Swamiji vào lúc này vì đã cho tôi cơ hội để hóa giải một phần nghiệp của mình.

Swamiji kính yêu, con xin cảm ơn Ngài vô vàn từ tận đáy lòng. Nguyện một ngày nào đó con xứng đáng với ân sủng mà Ngài đã ban cho con.
Với tất cả tình yêu.

“You can walk the spiritual path alone, but to walk with a Guru is sheer Grace.”
                     — Sadhguru

"Đi một mình trên con đường tâm linh là điều có thể, nhưng đi cùng Guru là ân sủng." - Advaita Vedanta

 

Bạn đang tìm hiểu về các bậc thầy tâm linh Ấn Độ, hành trình giác ngộ qua Kriya Yoga hay những cuốn hồi ký như Hồi ký của một Yogi hay Hành trình về phương Đông? Loạt bài viết về Guru của Vivy sẽ đưa bạn khám phá những con đường dẫn đến sự chữa lành sâu sắc và kết nối nội tâm thông qua yoga, thiền định và minh triết cổ xưa.

#BậcThầyTâmLinhẤnĐộ #KriyaYoga #HồiKýCủaMộtYogi #HànhTrìnhVềPhươngĐông #ChữaLànhTâmHồn #SáchTâmLinh #SáchYoga #YogaVàThiền #TâmLinhẤnĐộ #SáchHướngDẫnThiền #GuruVàĐệTử #TâmLinhThứcTỉnh #YogaSâu #KinhNghiệmTâmLinh #SáchChữaLành #TựTruyệnTâmLinh #ThứcTỉnhNộiTâm

師(し)から弟子(でし)へ──グルジが弟子(でし)たちを守(まも)り導(みちび)くために起(お)こした奇跡(きせき)の物語(ものがたり)

→ Câu chuyện về những phép màu mà Guruji đã thực hiện để che chở và hướng dẫn các đệ tử.

「真(しん)の弟子(でし)はグルを選(えら)ばない。グルが弟子(でし)を選(えら)ぶ──それは何世(なんぜ)にもわたる憧(あこが)れによるものだ。」
― 匿名(とくめい)
→ "Một người đệ tử chân thật không chọn Guru. Chính Guru chọn đệ tử – vì lòng đệ tử đã khát khao trong suốt nhiều kiếp sống."


アッパジのフィンランド訪問(ほうもん)

→ Appaji ở Phần Lan

第(だい)2話(わ)

体験(たいけん)と奇跡(きせき)

→ Câu chuyện thứ 2 – Trải nghiệm và Phép màu

Bạn đã nói:
thêm romanji và nghĩa tiếng việt
ChatGPT đã nói:

Dưới đây là phần đầu tiên của bản dịch tiếng Nhật, với đầy đủ furigana, romaji, và nghĩa tiếng Việt.
Cách trình bày:

  1. Câu tiếng Nhật có furigana

  2. Romaji

  3. → Nghĩa tiếng Việt


師(し)から弟子(でし)へ──グルジが弟子(でし)たちを守(まも)り導(みちび)くために起(お)こした奇跡(きせき)の物語(ものがたり)

Shi kara deshi e – Guruji ga deshi-tachi o mamori michibiku tame ni okoshita kiseki no monogatari
→ Câu chuyện về những phép màu mà Guruji đã thực hiện để che chở và hướng dẫn các đệ tử.


「真(しん)の弟子(でし)はグルを選(えら)ばない。グルが弟子(でし)を選(えら)ぶ──それは何世(なんぜ)にもわたる憧(あこが)れによるものだ。」
― 匿名(とくめい)
“Shin no deshi wa guru o erabanai. Guru ga deshi o erabu – sore wa nanse ni mo wataru akogare ni yoru mono da.”
→ "Một người đệ tử chân thật không chọn Guru. Chính Guru chọn đệ tử – vì lòng đệ tử đã khát khao trong suốt nhiều kiếp sống."


アッパジのフィンランド訪問(ほうもん)

Appaji no Finrando hōmon
→ Appaji ở Phần Lan


第(だい)2話(わ)

Dai ni wa
→ Câu chuyện thứ 2

体験(たいけん)と奇跡(きせき)

Taiken to kiseki
→ Trải nghiệm và Phép màu


スチュアート・マッシュバーン(ニューオーリンズ、ルイジアナ)

Suchuāto Masshubān (Nyū Ōrinzu, Ruijiana)
→ Stuart Mashburn, New Orleans, Louisiana


私(わたし)の話(はなし)は、「ヨガ・ジャーナル」誌(し)の広告欄(こうこくらん)を見(み)ていた時(とき)から始(はじ)まります。

Watashi no hanashi wa, "Yoga Jānaru" shi no kōkokuran o mite ita toki kara hajimarimasu.
→ Câu chuyện của tôi bắt đầu khi tôi đang xem qua những mẫu quảng cáo ở cuối tạp chí “Yoga Journal”.


次(つぎ)のページをめくると、スワミジの写真(しゃしん)が目(め)に入(はい)り、私はすぐに惹(ひ)かれました。

Tsugi no pēji o mekuru to, Suwamiji no shashin ga me ni hairi, watashi wa sugu ni hikaremashita.
→ Tôi lật sang trang kế và thấy một bức ảnh của Swamiji và lập tức cảm thấy bị thu hút bởi Ngài.


アメリカで巡回(じゅんかい)することを知(し)り、ニューオーリンズにも来(く)ることを願(ねが)いました。

Amerika de junkai suru koto o shiri, Nyū Ōrinzu ni mo kuru koto o negaimashita.
→ Thấy rằng Ngài sẽ đi lưu diễn ở Mỹ, tôi hy vọng rằng Ngài sẽ ghé qua khu vực New Orleans.


実際(じっさい)にスワミジは来(き)てくださり、私はこの存在(そんざい)に何(なん)としても会(あ)わなければならないと感(かん)じました。

Jissai ni Suwamiji wa kite kudasari, watashi wa kono sonzai ni nantoshitemo awanakereba naranai to kanjimashita.
→ Quả thật là Ngài đã đến. Tôi biết rằng mình phải gặp được vị hiện thân này dù có bất kỳ trở ngại nào, vì mối liên kết mạnh mẽ mà tôi đã cảm nhận.


ついにスワミジがニューオーリンズに到着(とうちゃく)する日(ひ)が来(き)て、私はスーリヤエさんとプラバ・ヴェンカテシュさんの家(いえ)でのサットサングに出席(しゅっせき)しました。

Tsuini Suwamiji ga Nyū Ōrinzu ni tōchaku suru hi ga kite, watashi wa Sūriyae-san to Puraba Venkateshu-san no ie de no sattsusangu ni shusseki shimashita.
→ Cuối cùng thì ngày Swamiji đến New Orleans cũng đã đến và tôi đã đi dự satsang tại nhà của Suryae và Prabha Venkatesh.


私(わたし)が座(すわ)って間(ま)もなく、スリ・スワミジは私(わたし)の目(め)をまっすぐ見(み)つめ、愛(あい)のレーザー光線(こうせん)で私(わたし)を打(う)ち抜(ぬ)きました。

Watashi ga suwatte mamonaku, Suri Suwamiji wa watashi no me o massugu mitsume, ai no rēzā kōsen de watashi o uchinukimashita.
→ Không lâu sau khi tôi ngồi xuống, Sri Swamiji nhìn thẳng vào mắt tôi và đánh trúng tôi bằng một tia laser của tình yêu.


その瞬間(しゅんかん)、私は何(なに)をすべきか悟(さと)りました。

Sono shunkan, watashi wa nani o subeki ka satorimashita.
→ Tôi biết mình phải làm gì.


翌朝(よくあさ)、仕事(しごと)へ行(い)くときに、私は一週間(いっしゅうかん)の休暇(きゅうか)を上司(じょうし)に申(もう)し出(で)ました。

Yokuasa, shigoto e iku toki ni, watashi wa isshūkan no kyūka o jōshi ni mōshidemashita.
→ Sáng hôm sau khi đi làm, tôi xin sếp nghỉ một tuần.


この特別(とくべつ)な聖者(せいじゃ)ともっと時(とき)を過(す)ごしたかったからです。

Kono tokubetsu na seija to motto toki o sugoshitakatta kara desu.
→ Để có thể dành nhiều thời gian hơn với vị thánh nhân đặc biệt này.


(こんな急(きゅう)な申(もう)し出(で)が受(う)け入(い)れられることは普段(ふだん)はありませんが、試(ため)してみるしかありませんでした。)

(Konna kyūna mōshide ga ukeirerareru koto wa fudan wa arimasen ga, tameshite miru shika arimasen deshita.)
→ (Điều này không phải dễ được chấp thuận trong thời gian ngắn như vậy, nhưng tôi phải thử).


スワミジの恩寵(おんちょう)のおかげで、私は休暇(きゅうか)を取(と)ることができました。

Suwamiji no onchō no okage de, watashi wa kyūka o toru koto ga dekimashita.
→ Nhờ ân huệ của Swamiji, tôi được phép nghỉ.


この瞬間(しゅんかん)、私はスワミジとの永遠(えいえん)の関係(かんけい)が運命(うんめい)によって定(さだ)められていると感(かん)じました。

Kono shunkan, watashi wa Suwamiji to no eien no kankei ga unmei ni yotte sadamerarete iru to kanjimashita.
→ Lúc này tôi biết rằng mối quan hệ lâu dài với Swamiji là điều đã được an bài.


翌朝(よくあさ)、私はスリ・チャクラ・プージャに早(はや)めに行(い)き、スワミジに献上(けんじょう)するためのオレンジを持(も)って行(い)きました。

Yokuasa, watashi wa Suri Chakura Pūja ni hayame ni iki, Suwamiji ni kenjō suru tame no orenji o motte ikimashita.
→ Sáng hôm sau nữa, tôi đến sớm để dự Sri Chakra Puja cùng với một quả cam để dâng lên Swamiji.


長(なが)く待(ま)つことになると思(おも)っていたので、そのオレンジにレイキを施(ほどこ)し、そのエネルギーも一緒(いっしょ)に捧(ささ)げるつもりでした。

Nagaku matsu koto ni naru to omotte ita node, sono orenji ni Reiki o hodokoshi, sono enerugī mo issho ni sasageru tsumori deshita.
→ Tôi biết rằng sẽ phải chờ lâu, nên tôi bắt đầu thực hiện Reiki cho quả cam, với ý định dâng năng lượng này lên Ngài nữa.


プージャの後(あと)、スワミジは供物(くもつ)を受(う)け取(と)り、講話(こうわ)を始(はじ)めました。

Pūja no ato, Suwamiji wa kumotsu o uketori, kōwa o hajimemashita.
→ Sau buổi puja, Swamiji chấp nhận các lễ vật và bắt đầu thuyết giảng.


お話(はな)の最中(さいちゅう)、スワミジはときどきオレンジに触(ふ)れているのが見(み)えました。

Ohanashi no saichū, Suwamiji wa tokidoki orenji ni furete iru no ga miemashita.
→ Trong khi Ngài đang nói, tôi để ý rằng thỉnh thoảng Ngài chạm vào quả cam.


その時(とき)、私はスワミジが物質化(ぶっしつか)できるとは知(し)らず、何(なに)も期待(きたい)していませんでした。

Sono toki, watashi wa Suwamiji ga busshitsuka dekiru to wa shirazu, nani mo kitai shite imasen deshita.
→ Lúc đó tôi không biết rằng Ngài có thể làm vật chất hóa các vật thể và tôi cũng không có kỳ vọng gì.


私(わたし)はただ、スワミジへの愛(あい)の気持(きも)ちから、オレンジとレイキのエネルギーを捧(ささ)げたのです。

Watashi wa tada, Suwamiji e no ai no kimochi kara, orenji to Reiki no enerugī o sasageta no desu.
→ Tôi đã dâng quả cam và năng lượng Reiki chỉ vì tình yêu dành cho Swamiji.


スワミジからいただいた恩(おん)に応(こた)えるために。

Suwamiji kara itadaita on ni kotaeru tame ni.
→ Để đáp lại Ngài theo cách mà Ngài đã ban tặng cho tôi.


スワミジは部屋(へや)の中(なか)の数人(すうにん)に物質化(ぶっしつか)された物(もの)を与(あた)え始(はじ)めました。

Suwamiji wa heya no naka no sūnin ni busshitsuka sareta mono o atae hajimemashita.
→ Ngài bắt đầu làm vật chất hóa các vật thể cho một số người trong phòng.


私(わたし)はその人(ひと)たちの大(だい)きな幸運(こううん)を喜(よろこ)び、何(なに)も望(のぞ)まず、皆(みな)の喜(よろこ)びをただ楽(たの)しんでいました。

Watashi wa sono hito-tachi no ōkina kōun o yorokobi, nani mo nozomazu, mina no yorokobi o tada tanoshinde imashita.
→ Tôi cảm thấy rất vui cho tất cả họ vì sự may mắn lớn lao của họ, và tôi vẫn không mong cầu gì, hoàn toàn tận hưởng niềm vui bất ngờ của mọi người.


スワミジは話(はな)を続(つづ)けながら、オレンジを持(も)ち続(つづ)けていました。

Suwamiji wa hanashi o tsuzuke nagara, orenji o mochi tsuzukete imashita.
→ Swamiji tiếp tục nói chuyện và tiếp tục cầm quả cam.


しばらくして、プラサドさんが立(た)ち上(あ)がり、「朝(あさ)からオレンジを持(も)っていた方(かた)は前(まえ)に来(き)てください」と言(い)いました。

Shibaraku shite, Prasado-san ga tachiagari, "asa kara orenji o motte ita kata wa mae ni kite kudasai" to iimashita.
→ Sau một lúc, Prasad đứng dậy và yêu cầu người đang cầm quả cam suốt buổi sáng đến gặp Swamiji.


私(わたし)は手(て)を合わせてスワミジの前(まえ)に進(すす)み、ひざまずき、頭(あたま)を下(さ)げました。

Watashi wa te o awasete Suwamiji no mae ni susumi, hizamazuki, atama o sagemashita.
→ Tôi bước đến trước mặt Swamiji với hai tay chắp lại, quỳ xuống và cúi đầu.


顔(かお)を上(あ)げると、スワミジはオレンジを半分(はんぶん)に割(わ)り、その中(なか)からマーラー(数珠(じゅず))を取(と)り出(だ)しました。

Kao o ageru to, Suwamiji wa orenji o hanbun ni wari, sono naka kara mārā (juzu) o toridashimashita.
→ Khi tôi ngẩng lên, Swamiji bẻ đôi quả cam và lấy ra một chuỗi hạt mala từ bên trong.


驚(おどろ)くべきことに、スワミジにはまるで三(みっ)つの手(て)があるかのようでした。

Odorokubeki koto ni, Suwamiji ni wa marude mittsu no te ga aru ka no yō deshita.
→ Điều lạ là Ngài dường như có ba tay ba bàn tay.


二(ふた)つの手(て)でオレンジを半分(はんぶん)に持(も)ち、もう一(ひと)つの手(て)でマーラーを引(ひ)き出(だ)していました。

Futatsu no te de orenji o hanbun ni mochi, mō hitotsu no te de mārā o hikidashite imashita.
→ Ngài bẻ quả cam ra làm hai phần bằng nhau, cầm mỗi nửa bằng một tay, và giơ lên chuỗi hạt mala vẫn đang kéo ra từ trong quả cam bằng một tay khác.


私(わたし)は手(て)を合わせて頭(あたま)を下(さ)げると、スワミジはそのマーラーを私(わたし)の首(くび)にかけてくださいました。

Watashi wa te o awasete atama o sageru to, Suwamiji wa sono mārā o watashi no kubi ni kakete kudasaimashita.
→ Với hai tay chắp lại tôi cúi đầu và Ngài đeo chuỗi mala lên cổ tôi.


そして、スワミジはマーラーを取(と)り出(だ)したオレンジの半分(はんぶん)を私(わたし)に渡(わた)して言(い)いました。「食(た)べなさい。これは良(よ)い薬(くすり)です。」

Soshite, Suwamiji wa mārā o toridashita orenji no hanbun o watashi ni watashite iimashita. "Tabenasai. Kore wa yoi kusuri desu."
→ Ngài đưa cho tôi nửa quả cam mà Ngài đã lấy chuỗi hạt ra và nói, “Ăn đi. Đây là thuốc tốt.”


残(のこ)りの半分(はんぶん)は母(はは)に渡(わた)してくれました。

Nokori no hanbun wa haha ni watashite kuremashita.
→ Rồi Ngài đưa nửa còn lại cho mẹ tôi.


私(わたし)は涙(なみだ)を流(なが)しながら感謝(かんしゃ)し、席(せき)に戻(もど)りました。

Watashi wa namida o nagashinagara kansha shi, seki ni modorimashita.
→ Tôi cảm ơn Ngài trong nước mắt rồi quay lại chỗ ngồi.


マーラーを引(ひ)き出(だ)したオレンジを目(め)の前(まえ)で見(み)てみると、果物(くだもの)は全(まった)く傷(きず)んでいませんでした。

Mārā o hikidashita orenji o me no mae de mite miru to, kudamono wa mattaku kizunde imasen deshita.
→ Khi xem xét quả cam từ nơi chuỗi mala được rút ra, ngay trước mắt tôi, tôi nhận thấy trái cây vẫn không hề bị hư hại.


私(わたし)はそのオレンジの皮(かわ)、果肉(かにく)、すべてを食(た)べて、ほんの少(すこ)しの皮(かわ)だけを残(のこ)し、それを祭壇(さいだん)に置(お)きました。

Watashi wa sono orenji no kawa, kaniku, subete o tabete, hon no sukoshi no kawa dake o nokoshi, sore o saidan ni okimashita.
→ Tôi ăn phần vỏ, cùi và tất cả, chỉ chừa lại một mảnh nhỏ của vỏ cam mà tôi giữ trên bàn thờ của mình.


そのマーラーは、美(うつく)しいガーネットの珠(たま)とクリスタルのグル珠(だま)で作(つく)られていました。

Sono mārā wa, utsukushii gānetto no tama to kurisutaru no guru dama de tsukurarete imashita.
→ Đó là một chuỗi mala bằng đá garnet tuyệt đẹp với hạt Guru bằng tinh thể thạch anh.


最初(さいしょ)はガーネットでしたが、時々(ときどき)アメジスト色(いろ)に変(か)わることもあります。

Saisho wa gānetto deshita ga, tokidoki amejisuto iro ni kawaru koto mo arimasu.
→ Tôi gọi là đá garnet vì ban đầu nó là như vậy. Tuy nhiên, đôi khi những hạt garnet đó chuyển sang màu tím thạch anh.


これは、スワミジがいつも私(わたし)と共(とも)におられるという素晴(すば)らしいサインでした。

Kore wa, Suwamiji ga itsumo watashi to tomo ni orareru to iu subarashii sain deshita.
→ Thật là một cách tuyệt vời để cho tôi biết rằng Ngài luôn ở bên tôi.


私(わたし)は自分(じぶん)が大(おお)きな祝福(しゅくふく)を受(う)けたと感じていましたが、何年(なんねん)も経(た)ってからその素晴(すば)らしさを真(しん)に実感(じっかん)しました。

Watashi wa jibun ga ōkina shukufuku o uketa to kanjite imashita ga, nannen mo tatte kara sono subarashisa o shin ni jikkan shimashita.
→ Tôi biết rằng mình đã nhận được một phước lành lớn, nhưng mãi nhiều năm sau tôi mới nhận ra điều đó tuyệt vời đến mức nào.


1993年(ねん)11月(がつ)、スワミジと出会(であ)って数(すう)か月後(げつご)に、職場(しょくば)で事故(じこ)に遭(あ)いました。

Sen kyū hyaku kyū jū san-nen jū ichi-gatsu, Suwamiji to deatte sū kagetsu go ni, shokuba de jiko ni aimashita.
→ Vào tháng 11 năm 1993, vài tháng sau khi gặp Swamiji, tôi gặp một tai nạn tại nơi làm việc.


その時(とき)、私はマーラーを首(くび)にかけていましたが、特(とく)に意識(いしき)していませんでした。

Sono toki, watashi wa mārā o kubi ni kakete imashita ga, toku ni ishiki shite imasen deshita.
→ (Lúc đó tôi đang đeo chuỗi mala, nhưng không nghĩ gì về nó).


友人(ゆうじん)クリスチャン・ペペローネと一緒(いっしょ)に高所作業車(こうしょさぎょうしゃ)に乗(の)っていた時(とき)、バスがそれに衝突(しょうとつ)しました。

Yūjin Kurisuchan Peperōne to issho ni kōsho sagyōsha ni notte ita toki, basu ga sore ni shōtotsu shimashita.
→ Một chiếc xe buýt đâm vào cái giỏ nâng người mà tôi và người bạn Christian Peperone của tôi đang ở trong đó.


奇跡的(きせきてき)に、私(わたし)たちは死(し)なずに済(す)みました。

Kiseki-teki ni, watashitachi wa shinazu ni sumimashita.
→ Thật là kỳ diệu khi cả hai chúng tôi không chết.


私(わたし)たちは外(そと)に投(な)げ出(だ)され、強(つよ)く地面(じめん)に叩(たた)きつけられました。

Watashitachi wa soto ni nagedasare, tsuyoku jimen ni tatakitsukeraremashita.
→ Chúng tôi bị bật ra khỏi giỏ và va đập khá mạnh.


多(おお)くの怪我(けが)を負(お)いましたが、生(い)き延(の)びました。

Ōku no kega o oimashita ga, ikinobimashita.
→ Kết quả là bị nhiều thương tích, nhưng vẫn sống.


数年後(すうねんご)、私はそのマーラーの意味(いみ)を本当(ほんとう)に理解(りかい)しました。

Sūnengo, watashi wa sono mārā no imi o hontō ni rikai shimashita.
→ Phải mất vài năm tôi mới nhận ra ý nghĩa của việc nhận được chuỗi mala.


スワミジの伝記(でんき)を読(よ)んだ後(あと)、私はその事故(じこ)が予見(よけん)されていたことに気(き)づきました。

Suwamiji no denki o yonda ato, watashi wa sono jiko ga yoken sarete ita koto ni kidzukimashita.
→ Sau khi đọc tiểu sử của Swamiji, tôi nhận ra rằng Ngài đã biết trước tai nạn này sẽ đến.


尊(とうと)いサッドグル、ダッタジの恩寵(おんちょう)により、私(わたし)の命(いのち)は救(すく)われました。

Tōtoi Saddoguru, Dattaji no onchō ni yori, watashi no inochi wa sukuwaremashita.
→ Và rằng nhờ ân sủng của Sadguru đáng kính, Dattaji, mạng sống tôi được cứu.


そのマーラーは、命(いのち)を救(すく)うために私(わたし)に授(さず)けられたものでした。

Sono mārā wa, inochi o sukuu tame ni watashi ni sazukerareta mono deshita.
→ Và Ngài đã trao cho tôi chuỗi mala đó để cứu mạng tôi.


この事故(じこ)の後(あと)の五年間(ごねんかん)、私は大(おお)きな苦痛(くつう)を抱(かか)えながら過(す)ごしました。

Kono jiko no ato no go-nenkan, watashi wa ōkina kutsū o kakae nagara sugoshimashita.
→ Đã trải qua năm năm dài đằng đẵng với nhiều đau đớn liên quan đến tai nạn này.


今(いま)、私は自分(じぶん)のカルマの一部(いちぶ)を解消(かいしょう)する機会(きかい)を与(あた)えてくれたスワミジに、公然(こうぜん)と感謝(かんしゃ)したいと思(おも)います。

Ima, watashi wa jibun no karuma no ichibu o kaishō suru kikai o ataete kureta Suwamiji ni, kōzen to kansha shitai to omoimasu.
→ Và tôi muốn công khai cảm ơn Swamiji vào lúc này vì đã cho tôi cơ hội để hóa giải một phần nghiệp của mình.


愛(あい)するスワミジ、心(こころ)の底(そこ)から深(ふか)く感謝(かんしゃ)しています。

Aisuru Suwamiji, kokoro no soko kara fukaku kansha shiteimasu.
→ Swamiji kính yêu, con xin cảm ơn Ngài vô vàn từ tận đáy lòng.


いつか、スワミジの恩寵(おんちょう)に相応(ふさわ)しい存在(そんざい)になれるよう努(つと)めます。

Itsuka, Suwamiji no onchō ni fusawashii sonzai ni nareru yō tsutomemasu.
→ Nguyện một ngày nào đó con xứng đáng với ân sủng mà Ngài đã ban cho con.


すべての愛(あい)をこめて。

Subete no ai o komete.
→ Với tất cả tình yêu.

Nhận xét

XEM CÁC BÀI ĐĂNG KHÁC

Bài đăng phổ biến từ blog này

Dosha là gì? Giải mã 3 thể tạng Vata, Pitta, Kapha theo Ayurveda

Ami cậu bé của các vì sao

Lớp Datta Kriya Yoga buổi tối online cùng Vivy